Tu Tập là phương pháp Báo Hiếu

Những hình ảnh của những tấm lòng hiếu thảo trong Đạo Phật đã cho ta thấy được phương pháp tu tập là căn bản để thiết lập một nền tảng báo hiếu rốt ráo , hữu hiệu, và đẹp nhất cho những ai mang tâm niệm báo đáp công ân cha mẹ, cũng như báo đền ân đức của Tam Bảo. Sau đây tôi xin tóm lượt ngắn gọn và nêu ra ít hình ảnh trong vô số câu chuyện nói về Gương Hiếu Hạnh, đã trải dài theo thời gian mà thời nào cũng có, để chúng ta cùng soi chung nhân mùa Báo Hiếu.

1. Trong kinh Địa Tạng có kể, Mục Hoa Quang là một thiện nữ Phật Tử, người mẹ lúc sanh thời không tin Tam Bảo, thích ăn nhiều cá trạch, có lúc bà có những hành động phỉ báng Tam Bảo. Mục Hoa Quang trong lòng buồn bã vì không thể khuyên can được mẹ hồi tâm, nên chỉ biết phát nguyện gắng sức tu tập để hồi hướng công đức cho mẹ sau nầy. Khi mẹ lâm chung, trong lòng quá buồn bã, sau khi cúng dường lễ bái các ngôi Chùa trở về nhà. Mục Hoa Quang ngồi tịnh tâm quán chiếu, vì đau buồn quá độ khiến kiệt sức đến hôn mê. Trong cơn mơ thấy mẹ sanh vào trong cảnh giới khổ đau (địa ngục), cùng lúc đó Mục Hoa Quang cũng thấy được cảnh giới của Phật (an lạc niết bàn). Người phát nguyện, sau nầy khi chưa độ hết chúng sanh ra khỏi cảnh giới đau khổ ấy thì quyết không thành Phật. (Chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật). Sau lời phát nguyện ấy thì cảnh giới địa ngục cũng biến thành cảnh giới thanh tịnh, người mẹ liền được sanh về cảnh giới an vui. Mục Hoa Quang chính là tiền thân của Đức Địa Tạng.

2. Vào thời Đức Phật tại thế, mẹ của ngài Mục Kiền Liên có những sự hiểu biết sai lệch (tà kiến) rất nặng, không muốn cho con mình xuất gia, bà đi theo tà đạo và luôn phỉ báng Tam Bảo, chuyên hành những điều bất thiện. Ngài Mục Kiền Liên dùng đủ mọi phương pháp để khuyên mẹ, nhưng đều vô hiệu. Bà qua đời trong cảnh đau khổ bởi nghiệp báo. Sau khi chứng ngộ và đạt được sáu phép thần thông. Ngài liền dùng Mắt Tuệ để tìm mẹ. Khi thấy được mẹ mình đã sinh vào cảnh giới ngạ quỷ đói khát, Mục Kiền Liên liền mang cơm dâng mẹ, nhưng bà không ăn được, lòng Ngài rất đau buồn. Ngài bạch Phật, theo lời Phật dạy, Ngài sửa soạn trai nghi cúng dường trai tăng nhân ngày Mười Phương Tăng Tự Tứ, cầu chú nguyện. Nhờ thần lực của Phật và mười phương Tăng Chúng, mẹ của ngài Mục Liên được thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ, sanh về thiên giới, hưởng cảnh an vui. Cũng trong ngày ấy, tất cả chúng sanh trong cảnh giới của đau khổ cũng được thoát khỏi kiếp ngạ quỉ.
3. Ở Bắc Việt,hiện còn một bia ký ghi về sự tích của Hoà Thượng Cua, bên cạnh có một am tích trưng thờ một quan tài. Chuyện thuật lại rằng: Có một gia đình chỉ có hai mẹ con, chồng mất sớm, bà buôn bán nuôi con trong hoàn cảnh nghèo nàn khốn khó. Một hôm nhân mua được một ít cua, mừng quá, bà mang về bảo con giã ra để nấu canh, bà đi bán tiếp. Bà nghĩ bụng, khi về sẽ có một bữa canh ngon mà hoàn cảnh nghèo nàn của gia đình mẹ con bà chưa bao giờ có. Bữa cơm dọn ra không thấy canh cua, bà hỏi con. Cậu bé ấp úng trả lời, khi con đem ra giã thì thấy mấy con cua bò lốc nhốc, con thấy tội quá nên đã đem thả hết rồi. Đang lúc muốn con mình được ăn và sự thèm khát lâu ngày trong lòng, bà nổi giận, cầm đôi đũa xới cơm giá đánh cậu bé, cậu sợ quá bỏ chạy và từ đó đi luôn không thấy trở về. Khoảng mấy chục năm sau, có người đến khuyên bà mẹ của cậu bé thả cua, cụ lớn tuổi rồi, nên vào một ngôi chùa kia để làm công quả, nương cửa Phật để có niềm an lạc. Bà liền đồng ý theo về làm công quả bếp núc. Một hôm vị Hoà Thượng Trú Trì có Phật sự đi xa, dặn các đệ tử, lúc thầy đi vắng, nếu bà cụ công quả dưới bếp có mất đi thì liệm vào quan tài và đợi thầy về. Quả như lời Hoà Thượng nói, vài ngày sau khi Hoà Thượng đi vắng, bà cụ mất, các đệ tử đã làm theo lời dạy của Thầy. Khi Hoà Thượng về, Thầy đứng trước quan tài chắp tay nói lên lời nguyện rằng, theo lời Phật dạy trong kinh, khi con bậc chân tu đắc đạo thì cha mẹ được sanh Thiên, nếu thật đúng như thế, cúi xin thần lực của Tam Bảo cùng long thiên hộ pháp, cho vỡ quan tài ra để con nhìn thấy mặt mẹ lần cuối. Quả thật, cái quan tài đã vỡ tung nắp ra, từ đó dân làng thường gọi Thầy là Hoà Thượng Cua, và cái quan tài hiện đang trưng thờ tại am nhỏ ở đó là chứng tích của câu chuyện.
4. Hoà Thượng Hư Vân, một vị cao tăng đắc đạo vào thời hiện đại, theo cuốn Cẩm Nang Tu Đạo của Thầy, thì mẹ Thầy mất lúc Thầy vừa mới sinh, vì Thầy sinh ra trong một bọc thịt, bà thấy vậy nên sợ quá lên máu mà chết. Lớn lên, Thầy lập chí nguyện xuất gia để báo đền ân sanh dưỡng của cha mẹ. Vì Thầy luôn luôn bị ám ảnh là bà cụ thân sinh mất vì sự ra đời của mình. Thân phụ của Thầy là một quan lớn, nhiều lần Thầy trốn nhà đi tu đều bị bắt trở về và cuối cùng thì Thầy đã thực hiện được chí nguyện ấy. Sau khi xuất gia vững chãi, nhiều năm chuyên tu tập khổ hạnh trong hang núi, có một thời gian, đói ăn đọt tùng, khát uống nước suối, Thầy đã nhập định có khi cả tháng. Có lần Thầy đã phát nguyện ba bước một lạy (tam bộ nhất bái) từ núi Phổ Đà đến núi Ngũ Hành để lễ bái đức Bồ Tát Văn Thù. Trải qua biết bao chặng đường của tuyết sơn trở ngại, nguy hiểm đã đe dọa đến tánh mạng nhiều lần, nhưng Thầy vẫn không nao núng. Thầy sống thọ gần 120 tuổi. Suốt quãng đường tu đạo và hành đạo, Thầy đã trùng tu và xây dựng biết bao ngôi chùa, tiếp dẫn hàng nghìn học tăng, giáo hoá hàng trăm nghìn Phật tử tại gia. Đó là công hạnh của người muốn báo đền ân sanh dưỡng và ân đức của Tam Bảo, mà mỗi khi chí nguyện và công quả tròn đầy thì kết quả của sự báo đền cũng được mãn nguyện.
Trên đây là những thực tế về hành động của sự tu tập bằng tâm niệm báo ân sanh dưỡng. Riêng về văn chương chữ nghĩa, có rất nhiều áng văn viết về lòng hiếu thảo, đọc lên nghe rất cảm động, song về mặt thực tế bên ngoài, chúng ta ít ai quan tâm đến việc khuyến hoá cha mẹ tu tập. Nhất là ở vào xứ này, đôi khi cha mẹ muốn đến chùa dự những khoá tu tập, tụng kinh, nghe pháp, đó là niềm vui đối với tuổi già, song nhờ vả sự đưa đón của con cái cũng là điều rất khó khăn. Chúng ta luôn viện lý do là con cái bận rộn về công ăn việc làm, chỉ rãnh được vài ngày cuối tuần thì bận về chuyện cá nhân cho mình, cho vợ con, cho chồng con, nên không thể thực hiện cách khuyến hoá, tạo phương tiện cho cha mẹ tu tập được. Chúng tôi đã thao thức rất nhiều về những băn khoăn của một số Phật tử, họ mong muốn được báo ân cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ quá cố, và họ thắc mắc những vấn đề sau đây.
Cung phụng cha mẹ có phải là phương pháp báo hiếu không (?!)
Đúng như vậy, nhưng chúng ta thử chiêm nghiệm một đoạn ngắn trong khinh Báo Ân, “Cho dầu vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ đi giáp vòng hòn núi Tu Di đến trăm ngàn kếp vẫn không đền đáp được ân đức cha mẹ.” Vậy thì làm sao báo đền được ân đức sâu dày của cha mẹ! Đức Phật dạy: “Chỉ có cách tự mình tu tập và khuyến hoá cha mẹ tu tập là cách đền báo ân đức tốt nhất và có ý nghĩa nhất.” Điều cung phụng cha mẹ đối với người con, nhất là người con Phật thì phải lấy việc hiếu thảo và cung dưỡng cha mẹ làm đầu và là điều quan trọng. Tuy nhiên, việc tự mình tu tập và khuyến hoá hay tạo điều kiện cho cha mẹ tu tập càng quan trọng hơn sự cung dưỡng cha mẹ bằng miếng ngon vật lạ. Vì cung phụng cha mẹ dù có đầy đủ bao nhiêu thì cũng chỉ để nuôi phần thể xác hiện tại, khi bỏ thân xác ấy rồi thì thần thức phải tuỳ nghiệp thọ báo và sẽ phải luân hồi trong sinh tử khổ đau, và cứ như thế, không biết bao giờ được thoát ra khỏi. Cố gắng tu tập và khuyến hoá cha mẹ tu tập cũng như tạo phương tiện cho cha mẹ tu tập là cách vừa cung dưỡng cho cha mẹ từ thể chất đến tinh thần. Vì tự mình tu tập là vừa nuôi dưỡng được tuệ giác giải thoát, và vừa làm vui lòng cha mẹ. Các bậc làm cha làm mẹ mỗi khi thấy được con cái có lòng hiếu thảo, có căn bản đạo đức là cha mẹ không phải thấp thỏm buồn lo cho tương lai của con cái, không hổ thẹn với bà con làng xóm, mà luôn luôn vui sướng, hãnh diện khi thấy con cái của mình có căn bản đạo đức tốt. Tự mình siêng năng tu tập cũng là cách gián tiếp nhắc nhở cha mẹ tu tập vậy. Khuyến hoá cha mẹ hay tạo phương tiện cho cha mẹ tu tập là cách cung dưỡng vị ngọt cam lồ để nuôi lớn tuệ giác của cha mẹ, là giúp cho cha mẹ thiết lập con đường căn bản của sự giác ngộ, để có cơ hội đi đến giải thoát luân hồi sau nầy, đó là lối xử sự rất chí hiếu.
Xây lăng táng mộ cho cha mẹ có phải là báo hiếu không (?!)
Xây lăng đắp mộ để nhớ ơn sanh dưỡng của cha mẹ cũng là điều rất tốt. Tuy nhiên, chúng ta không nên xây với tính cách so sánh hơn thua vì những lăng mộ khác quanh chúng ta, cũng không nên vì rạng mặt nở mày với làng với xóm mà xây, mà hãy xây bằng tâm nguyện nhớ ơn và phải tuỳ hoàn cảnh xã hội mà xây, để những người thiếu cơm thiếu áo quanh ta khỏi tủi phận đau lòng. Vì khi họ nhìn thấy chúng ta dư dả trong cuộc sống xa hoa phung phí, khiến cho họ tủi phận nghèo khổ buồn đau, và việc làm mà chúng ta nghĩ là có hiếu đó cũng sẽ không ý nghĩa gì.
Đôi khi chúng ta có những ý nghĩ rất sai lầm, đó là chúng ta xây lên một lăng mộ thật lớn, cố ý để rạng mặt nở mày cho người thân đang sống của chúng ta với làng xóm, và cũng để trả hiếu cho cha mẹ, cho người thân. Bởi chúng ta nghĩ là cha mẹ hoặc người thân quá cố của chúng ta sẽ vui sướng để ở trong lăng mộ đó. Khi vừa xây xong lăng mộ như thế, chúng ta cũng có một buổi lễ gọi là lễ khánh thành lăng mộ hay tạ mộ. Trong buổi lễ đó chúng ta sẽ khao đãi bà con xóm giềng bằng vài ba con heo, hay con bò chẳng hạn. Quả thật chúng ta đã làm một việc làm vô cùng trái ngược với chánh pháp. Có những điều mà người phàm mắt thị như chúng ta khó có thể nhìn thấy, nhưng rải rác rất nhiều trong kinh Phật đều có đề cập đến vấn đề “Luân Hồi Lục Đạo.” Mọi chúng sanh đều vì nghiệp lực mà phải rơi vào trong sáu nẻo, đó là các cõi trời, cõi người, a tu la, ngạ quỷ (ma), bàng sanh và địa ngục. Như thế thì những con heo con bò đó cũng là những chúng sanh, cũng có thần thức và bị nghiệp lực chi phối, khi bị giết oan, nó không thể đi đầu thai được, nên nó sẽ phải làm ma và sẽ ở lại chung trong cùng lăng mộ với người thân của chúng ta vậy (?!.) Chưa nói đến chuyện cũng có thể một trong những con vật đó đã là cha, là mẹ hoặc đã là anh chị em, bà con của chúng ta trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, vì nghiệp lực nên đã sinh làm súc vật, bị chúng ta giết nhầm nữa là khác. Vậy, chính mình đã giết hại người thân của mình, chính mình đã ăn thịt người thân của mình. Và chính mình đã khiến cho những con vật đã bị giết trong những buổi lễ đó làm ma để ở chung với người thân của mình trong lăng mộ!.. Nghĩ thế mà rùng rợn, nghĩ thế mà thương cho những người thân của mình, và nghĩ thế mà thương cho cái u mê (vô minh) thích hơn thua của mình đã không được sáng suốt để nhìn thấy tường tận. Vậy nên, chúng ta chỉ xây lăng mộ vừa phải, cốt ý là để nhớ ơn đối với người quá cố, chứ không nên vì những mống ý khác. Và sau khi xây lăng mộ xong, chúng ta không nên tạ lễ, khánh thành bằng những con vật, mà có thể dùng những món thức ăn chay tinh khiết để cúng giỗ hay để khao đãi tiệc tùng là tốt hơn. Vì khi chúng ta làm được một việc thiện gì rất nhỏ, hoặc giúp cho ai được điều gì, chúng ta cũng đều cảm thấy vui. Đã có được niềm vui như thế rồi, chúng cũng nên để cho những con vật được sống, nhưng nếu chúng ta lại vui trên sự sống của những con vật thì quả thật, cái vui đó sẽ là nghiệp quả đau khổ mà chúng ta phải trả trong tương lai.
Nhân mùa Vu Lan Báo Hiếu, chúng tôi có vài lời thô thiển trên đây, xin chia sẻ cùng quí bạn đọc, bằng tâm nguyện nhỏ nhoi là mong nhờ những tấm gương hiếu hạnh vĩ đại của các bậc cao tăng đắc đạo, để chúng ta cùng soi chung. Lấy đó làm cẩm nang phát huy tâm hiếu và hạnh hiếu, cũng như lấy trí tuệ soi sáng làm đạo nghiệp trên con đường tìm về giải thoát an lạc.
Tuệ Minh-Thích Phước Toàn
August 20, 2001
(Tưởng Niệm Huý Nhật Song Thân)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *